Nông nghiệp Việt Nam thời Nguyễn độc lập

Ngày   20:04:26, 14-08-2017 Tác giả Trần Thị Huyền

Tình hình ruộng đất

Ở nửa đầu thế kỉ XIX, tình hình ruộng đất - tư liệu sản xuất chính của nông nghiệp và là nền tảng kinh tế chủ yếu của xã hội - đặt ra hàng loạt khó khăn.

Chẳng hạn, năm 1803 quan lại Bắc Thành tâu: “Ruộng đất... thì đến cuối thời Lê, bọn cường hào kiêm tính mỗi ngày một quá. Nay xin phàm ruộng đất công tư đều dồn cả về số dân, ai có tư điền thì để lại 3 phần, còn 7 phần thì giao cho xã dân quân cấp. Lại ở trong số quân cấp thì để lại 2/10 chờ cấp cho dân mới về sau" hoặc "từ loạn Tây Sơn bò hết luật cũ, dân gian nhiều người đổi ruộng công làm ruộng tư, cũng có kẻ tạ sự việc công mà cấm bán ruộng công…”.

Hơn nữa, do sổ sách mất mát, "cách ghi chép không được thực", “dân xiêu tán nhiều, ruộng đất bị làng bên chiếm đoạt" v.v... Năm 1803, Gia Long cho tiến hành một đợt do đạc ruộng đất lớn, lập “địa bạ“ các xã. Trải qua nhiều lần làm đi làm lại, năm 1820, bộ Hộ chính thức báo cáo: Tổng diện tích ruộng đất của cả nước là 3.076.300 mẫu và 26.750 khoảnh. Thời Minh Mạng, sau nhiều lần lập thêm địa bạ các xã chưa làm và đặc biệt sau đợt đo đạc ruộng đất Nam Kì năm 1836, bộ Hộ đã cho con số (năm 1840): Tống diện tích ruộng đất thực canh là 4.063.892 mẫu, trong đó tổng diện tích ruộng là 3.396.584 mẫu công tư, trong số ruộng này có 2.816.221 mẫu ruộng tư và 580.363 mẫu ruộng công (tức 17%). Không chỉ ở Nam Kì có rất ít ruộng công mà ở Bắc Kì, trải qua nhiều thế kỉ biến chuyển, nhiều xã hoặc không có hoặc rất ít ruộng công. Tất nhiên, giờ đây số địa chủ rất lớn không còn nữa nhưng hàng loạt nông dân không có ruộng đất hoặc phiêu tán hoặc trông chờ vào khẩu phần ruộng công mà ruộng công ở nhiều xã hoặc không còn hoặc còn lại quá ít. Không đám thực hiện đề nghị của quan lại Bắc Thành, nhưng lại không thể xóa bỏ ruộng đất công làng xã, Gia Long, Minh Mạng buộc phải tìm giải pháp trong chế do quân điền.

Năm 1804, Gia Long ban hành phép quân điền, theo đó tất cả mọi người đều được chia ruộng công ở xã, trừ các quý tộc vương tôn được cấp 18 phần, quan lại nhất phẩm được cấp 15 phần, cứ tuần tự hạ mức cho đến dân nghèo được 3 phần. Không những thế, theo lệ, ruộng đất được chia trước cho các quan chức có phẩm hàm, sau đến lính và cuối cũng mới đến xã dân.

Năm 1831, Minh Mạng cho nhắc lại nguyên tắc nói trên. Nhận thấy ruộng đất công quá ít ỏi, "các quan viên không cứ chức phẩm cao thấp đều xin thói dự cấp”, năm 1839 Minh Mạng đành chấp nhận đề nghị đó, chỉ "gia án chiếu lệ chia cấp ruộng đặt khẩu phần cho… các viên đã hưu trí". Tiếp đó, đến năm 1840, một lần nữa Minh Mạng sửa lại phép chia ruộng, cho tất cả mọi người đều được hưởng một phần như nhau, riêng lão nhiêu, tàn tật được 1/2 phần, lương điền của lính không thay đổi. Vào cuối đời Minh Mạng, chế độ quân điền cũng được đưa vào Nam Kì nhưng không được bao nhiêu.

Chính sách quân điền không có tác dụng đáng kể vì làng nào làm theo tục lệ làng ấy, dân nghèo vẫn không có ruộng đất. Đặc biệt là tình hình ở Bình Định. Theo báo cáo của Tổng đốc Bình - Phù là Vũ Xuân Cẩn năm 1838, ở đây ruộng công chỉ có trên 5000 mẫu, ruộng tư đến 17000 mẫu, mà ruộng tư thì bi bọn hào phú chiếm cả, người nghèo không nhờ cậy gì. Sự thực theo Thượng thư bộ Hộ Hà Duy Phiên, ở đây ruộng công là 6-7000 mẫu, ruộng tư hơn 70 000 mẫu, mà “nhà hào phú kiêm tính đến 1-200 mẫu, người nghèo không một thước, một tấc đến nỗi phải làm đầy tớ cho người“. Do đó, Vũ Xuân Cẩn đã đề nghị “phàm ruộng tư, định hạn là 5 mẫu, ngoài ra lấy làm ruộng công cả, chia cấp cho bình dân để làm ruộng lương, ruộng khẩu phần”. Ban đầu Minh Mạng không chấp nhận, sau đó thực tế yêu cầu, phải ban lệnh sung công một nửa số ruộng đất tư, đem chia cho dân theo phép quân điền. Kết quả, theo lời tâu của Thượng thư bộ Hình Đặng Văn Thiêm với Tự Đức: “Lúc trước định lệ quân điền, cứ 10 mẫu thì 5 mẫu làm công, 5 mẫu làm tư. Nhưng ruộng công màu mỡ thì cường hào cưỡng chiếm, còn thừa chỗ nào thi hương lí bao chiếm, dân chỉ được phần xương xẩu mà thôi“. Và khi Tự Đức hỏi Hà Duy Phiên có nên trả lại ruộng cho địa chủ Binh Định không, thì Duy Phiên cho rằng “tăng giảm thêm bớt không bao nhiêu mà lại sinh ra việc phiền phức bối rối”.

Nhà Nguyễn đã tỏ ra bất lực trong việc giải quyết vấn đề ruộng đất.

Tình hình nông nghiệp

Một trong những phương thức quen thuộc nhằm mở rộng ruộng đất của nhà Nguyễn là lập đồn điền khẩn hoang và khuyến khích nhân dân khai hoang, phục hóa. Vấn đề càng trở nên cấp bách hơn là diện tích ruộng đất bỏ hoang tăng giảm thất thường. Ngay từ những năm 1802, 1808. Gia Long đã nhiều lần hạ lệnh cho quan lại khuyến khích nhân dân, quân sĩ phục hóa, thế nhưng năm 1806, theo báo cáo của quan lại Bắc Thành, nhân dân tiếp tục phiêu tán đến hơn 370 thôn xã; năm 1826 theo quan lại Bắc Thành 13 huyện trong hạt trấn Hải Dương, nhân dân vì đói phiêu tán đến 108 xã thôn, ruộng đất hoang hơn 12.700 mẫu... cho đến cuối những năm 30 diện tích ruộng đất hoang hóa đã lên đến 1.314.927 mẫu (theo “Quốc triều điều lệ lược biên“).

Đồn điền được thiết lập ở nhiều nơi, nhất là ở Nam Kì và các tỉnh cực nam Trung Kì. Lực lượng đồn điền bao gồm nhiều loại: binh sĩ, người bị lưu đày, dân nghèo Việt hay Hoa. Nhiều đồn điền sau khi khai phá xong thì được chuyển thành làng xã, ruộng đất do xã quan và nộp thuế. Đợt xây dựng đồn điền quy mô nhất là do Nguyễn Tri Phương - bầy giờ làm Kinh lược sứ Nam Kì - tổ chức vào các năm 1853-1854. Kết quả lập được 21 cơ với 124 ấp phân phối ở cả 6 tỉnh. Tuy nhiên, ruộng đất khai phá được cũng không nhiều.

Năm 1828, theo đề xuất của Tham tán quân vụ Bắc Thành là Nguyễn Công Trứ, một hình thức khai hoang mới ra đời: hình thức doanh điền. Đây là một hình thức kết hợp giữa nhà nước và nhân dân trong khai hoang, theo đó dưới sự chỉ đạo của một quan chức nhà nước và có sự góp vốn ban đầu của nhà nước, nhân dân cùng nhau khai hoang. Ruộng đất sau khi khai hoang sẽ được phân phối cho những người có công tùy theo thời điểm cho phép. Được sự đồng ý của Minh Mạng. Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ đã tổ chức nhiều đợt khai hoang lập làng lớn, trong đó lớn nhất là việc thành lập hai huyện mới: Tiền Hải (Thái Bình) với 18.970 mẫu và 2850 đinh; Kim Sơn (Ninh Bình) với 14.620 mẫu và 1260 đinh. Đồng thời ở đây xuất hiện hai hình thức tư điền thế nghiệp và tư điền quân cấp. Hình thức doanh điền được mở rộng ra các tỉnh phía nam, diện tích ruộng đất tăng thêm đáng kể.

Ngoài ra, triều Nguyễn còn khuyến khích nhân dân tự động tổ chức khai hoang theo nhiều phương thức khác nhau, kết hợp với việc tích cực phục hóa. Có lẽ nhờ đó mà tổng điện tích ruộng đất thực trưng ngày càng tăng lên: năm 1847 đã là 4.273.013 mẫu.

Trị thủy và thủy lợi là những việc làm xuyên suốt thời Nguyễn

Mặc dầu ở miền Trung cũng có nhiều lần nước lũ dâng tràn, cuốn trôi nhà cửa, nhưng có lẽ năm 1803, lần đầu tiên Gia Long được chứng kiến một nạn lụt lớn do vỡ đê Bắc Thành gây ra. Thấy rõ mối quan hệ giữa công tác thủy lợi và nông nghiệp, Gia Long lập tức ban dụ hỏi về vấn đề đê: “Bọn người, người thì sinh ở nơi đó, người thì làm việc ở nơi đó, vậy, đắp đê và bỏ đê, cách nào lợi, cách nào hại, cho được bày tỏ ý kiến, lời nói mà có thể thực hành sẽ được nêu thưởng. Cuộc thảo luận về đê ở Bắc Thành được phát động mặc đầu nhà nước vấn tiếp tục sửa đê, đắp đê mới. Riêng trong thời Gia Long, nhà nước đã 11 lần cấp kinh phí cho địa phương làm việc này, mỗi lần từ 7-9 vạn quan tiền. Hơn 47 km đê được tu sửa, nhưng nạn vỡ đê, lụt lội vẫn diễn ra. Năm 1833, Minh Mạng lại hiếu dụ các quan lại kiến nghị về phương pháp trị thủy, thế nào cho nước lớn thuận dòng chảy xuôi, đê sông được bền vững mãi mãi. Trong thời gian trị vì, Minh Mạng cũng đã 14 lần cấp kinh phí (tiền, gạo) cho việc sửa đắp đê điều, đào kênh, sông. Năm 1809, Gia Long cho đặt các chức Tống lí và Tham lí đê chính lo việc đê điều ở Bắc Thành; năm 1828 theo đề nghị của các quan, Minh Mạng cho thành lập Nha đê chính gồm nhiều quan chức và thơ lại, phụ trách công tác thủy lợi. Năm 1833, Minh Mạng bỏ Nha Dê chính, giao mọi việc cho tỉnh với bản Điều lệ chống lụt 4 điếm. Cùng với sự hình thành của các cơ quan, viên chức phụ trách thủy lợi, nhà nước chia đê làm hai loại: đê công ở các sông lớn do nhà nước quản lí, đê tư ở các sông nhánh do địa phương quản lí. Làng xã cũng góp phần vào việc sửa đắp đê điều, phòng lụt lội. Nhiều đoạn sông được nạo vét, khơi thông, nhiều cống đập được xây dựng… Thế nhưng do thiếu phối hợp và quy hoạch chung, do tác động của môi trường, sinh thái, lụt lội, đê vỡ vẫn liên tiếp xảy ra. Từ 1802 - 1858 cả nước phải chịu 88 lần mưa bão lụt lội lớn, trong đó có 16 lần vỡ đê. Các năm 1803, 1804, 1806. 1819, 1828, 1833, 1840, 1842, 1844, 1847, 1866, 1857 hầu như cả vùng đồng bằng Bắc Kì bị ngập lụt, theo đó là mất mùa, đói kém.

Công cuộc trị thủy và thủy lợi được tiếp tục trong những năm sau, dưới thời Tự Đức, nhưng nói chung kết quả không có gì khả quan. Nhà Nguyễn đã tỏ ra bất lực.

Để bù lại những mất mát do con người hay trời đất gây ra, người nông dân Việt Nam chỉ còn biết tận dụng những kinh nghiệm của mình trong sản xuất. “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống“ trở thành câu đúc kết lí luận chỉ đạo việc sản xuất. Quy trình sản xuất được khẳng định: gieo mạ, cày bừa, cấy lúa, làm cỏ, bỏ phân, tát nước v.v… Vấn đề nhân giống được phát huy, người nông dân đã có được 65 giống lúa tẻ và 27 giống lúa nếp: trong số này có những giống lúa ngắn ngày 3-4 tháng (từ cấy đến gặt) hoặc ít hơn, chỉ 40 ngày (lúa cậu). Điều đáng chú ý là trong khi tìm ra được nhiều giống lúa cho gạo thơm, trắng, dẻo ngon thì người nông dân lại không tạo được điều kiện tăng năng suất lúa.

Tận dụng khả năng của đất và thời tiết, người nông dân trồng thêm nhiều loại cây lương thực như khoai các loại, sắn, ngô, kê, bo bo, đậu… Kinh tế vườn phát triển, đặc biệt là ở Nam Kì. Hàng loạt loại rau, củ, bầu bí, hoa quả được trồng, trong đó có một số giống nhập khẩu như nho, cà phê, hồ tiêu, đậu Hà Lan, rau xà lách v.v…

Các loại cây công nghiệp như dâu, bông, đay, thuốc lá, mía, cói… được trồng rộng khắp.

Kinh tế nông nghiệp thời Nguyễn khá đa dạng, phong phú nhưng vẫn không vượt ra khỏi phương thức sản xuất cổ truyền, góp phần tạo nên tình trạng ổn định cho xã hội. Trong lúc đó thiên tai, mất mùa, dich bệnh xảy ra liên miên đã ảnh hưởng to lớn đến cuộc sống của nhân dân.

>> Xem thêm thế hệ đồ Phong kiến Việt Nam.

Bình luận Nông nghiệp Việt Nam thời Nguyễn độc lập

Bài viết mới về gạo