Nông nghiệp Đại Việt thời Trần
Ngày 16:42:02, 29-07-2016 Tác giả Trần Thị Huyền
Các hình thức sở hữu ruộng đất
Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước
Sự thống trị của chính quyền nhà Trần trong phạm vi cả nước và uy quyền chuyên chế của hoàng đế đã tạo thành một quan niệm "đất của vua, chùa của bụt“, một quan niệm đã xác nhận sự tồn tại tự nhiên: chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất rất phổ biến:
Có hai bộ phận cấu thành ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước:
- Ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lí.
- Ruộng đất công của thôn làng.
Bộ phận do nhà nước trực tiếp quản lí
Ruộng đất này tồn tại như tài sản của bản thân nhà vua và hoàng cung, một loại "tư hữu' đặc biệt mà những hoa lợi bóc lột là của riêng của chính hoàng đế.
Bộ phận ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý có sơn lăng, tịch điền và quốc khố.
- Sơn lăng, đã có dưới thời Lý, tập trung ở hương Cổ Pháp (Đình Bảng, Tiên Sơn, Bắc Ninh), vẫn tồn tại qua thời Trần. Năm Hoằng Định thứ 5 (1604), Bình An Vương Trịnh Tùng còn ra lệnh chỉ giữ 284 mẫu 1 sào ruộng sơn lăng để phụng thờ tám vua nhà Lý.
Ở thời Trần, các vua được chôn cất nhiều nơi, nên ruộng sơn lăng cũng rải rác. Các làng Thái Đường, Thâm Động (đều thuộc Thái Bình), Tức Mặc (Nam Định) Yên Sinh (Quảng Ninh) đều có ruộng sơn lăng. Riêng ở Thâm Đông có làng vua Trần Minh Tông, ruộng sơn lăng đến thế kỉ XVIII cũng có đến vài chục mẫu.
Một số quý tộc nhà Trần cũng có ruộng sơn lăng. Trân Thủ Độ sau khi chết chôn ở địa phận xã Phù Ngự (làng Ngự, Hưng Hà, Thái Bình), có ruộng sơn lăng duy trì đến cuối thế kỉ XVIII vẫn còn 20 mẫu. “Đầu niên hiệu Chính Hòa (1680 - 1705) dân địa phương lấy cớ là phải võng cảng, cung đốn khổ sở, cùng nhau làm tờ khai bỏ tự điền, chỉ lấy hoa lợi 9 mẫu điền nguyên trước cấp cho.
Hoài Đức Vương Trần Bà Liệt. con Trần Thừa, khi chết chôn tại quê mẹ ở Trang Liệt (Tiên Sơn, Bác Ninh) cũng có một khu ruộng mà đầu thể kỉ XX nhân dân địa phương còn gọi là “Trần Triều sơn lăng”. Cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ruộng sơn lăng của Hoài Đức Vương vẫn còn 41 mẫu liền một khoảnh có ghi trong địa bạ làng này. Làng dành riêng chỉ trồng cây. Một văn bản tại địa phương đề ngày 2 tháng 11 năm Thành Thái 13 (1901) ghi rõ “khu sơn lăng của xã nhất thiết nghiêm cấm chặt cày đốn gỗ. Gỗ chỉ dùng vào việc xây dựng hay sửa chữa đình, miếu, các công trình công cộng”.
Không rõ hoa lợi thu được trên loại ruộng sơn lăng các vương hầu là thuộc triều đình hay của gia đình riêng. Về sau, trong các thời Lê - Nguyễn đều chuyến thành ruộng công do làng xã quản lí, có lẽ bởi nó vốn là ruộng công của triều đình.
Tuy nhiện, tổng diện tích của ruộng sơn lăng rất nhỏ hẹp, không có tác dụng gì đáng kể trong chế độ sở hữu ruộng đất nói chung.
- Tịch điền đã có từ các triều đại trước. Các vua Tiền Lê, Lý đều có cày ruộng tịch điền.
Tịch điền là loại ruộng riêng của cung đình. Sử cũ không cho biết các vua Trần đặt ở vùng nào, mà chỉ ghi đơn giản "mùa đông tháng 11 năm Bính Thìn (1316) sai tế thần, tôn thất cùng các quan gặt ruộng tich điền”. Như vậy là phần lớn các hoa lợi trên ruộng này đều vào kho riêng của vua. Rất tiếc, sử cũ không cho biết thân phận người cày cấy ruộng tịch điền là nô tì, nông nô hay nông dân làng xã. Tổng diện tích ruộng tịch điền cũng rất nhỏ hẹp, không có ảnh hưởng gì quan trọng trong sự phát triển của sản xuất nông nghiệp.
- Ruộng quốc khố. Thư tịch cổ như An nam chí nguyện cho biết thời Trần công điền là quốc khố điền. Các nguồn sử liệu xưa của nước ta hầu như không ghi chép đến quốc khố điền. Chúng tôi vẫn dùng thuật ngữ này để chỉ một loại ruộng do nhà nước trực tiếp quản lí khác với sơn lăng và tịch điền.
Thời Trần, ruộng quốc khố đặt ở Cảo Xã (Nhật Tảo, Từ Liêm, Hà Nội). Những người cày ruộng quốc khố ở Cảo Xã gọi là Cảo điền hoành. Sử cũ ghi “năm 1230 những người bị tội đồ làm Cảo điền hoành bị thích vào mặt sáu chữ cho ở Cảo Xã cày ruộng cộng, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm thu 300 thăng thóc”. Như vậy, phần đáng kể ruộng làng Cảo là quốc khố do những người bị tù tội cày cấy, thân phận của họ rất thấp hèn.
Ruộng đất do nhà nước quản lí không chiếm một số lượng lớn, nhưng cũng là nguồn thu nhập đáng kể của triều đình. Ở đây nhà vua là chủ sở hữu thực sự. Vài ba chữ mà sử cũ ghi là hoành nhi để chỉ người cày ruộng tịch điền, có nguồn gốc tù tội cho ta một ý niệm về sự phụ thuộc thân phận vào chủ ruộng. Đồng thời chi tiết: mỗi người cày 3 mẫu, mỗi năm nộp 300 thăng thóc thể hiện mức bóc lột khá nặng nề dưới hình thức như là tô hiện vật. Có thế cho rằng đây là hình thức bóc lột theo kiểu loại nửa nông nô nửa tá điền. Sự kết hợp phức tạp này cũng là hiện tượng phổ biến đương thời.
Ruộng đất công làng xã
Hương là đơn vị hành chính cấp cơ sở của chính quyền nhà Trần cho đến giữa thế kỉ XIV. Do yêu cầu thu tô thuế, điều động nhân lực phục dịch và tuyển lính nên nhà nước thường kiểm kê dân số. Năm 1228, triều đình phái đại thần đi duyệt số đinh phủ Thanh Hóa, quy định ”hàng năm, đầu mùa xuân, xã quan khai báo số nhân khẩu gọi là đơn số, rồi sau căn cứ theo số mà định, kê rõ các hạng tôn thất, quan văn giai, quan võ giai, quan theo hầu, quân nhân tạp lưu, hoàng nam, già yếu, bất cụ, phụ tịch, xiêu tán v.v... Phan Huy Chú cũng ghi “buổi đầu nhà Trần làm sổ hộ tịch, cứ hàng năm lại làm kế tiếp, phép làm rất rõ ràng và kĩ vì là noi theo phép cũ của nhà Lý”.
Việc điều tra dân số chặt chẽ của triều đình (chủ yêu ở đồng bằng sông Hồng và Thanh Nghệ) ngoài yêu cầu tuyển lính bắt phu còn do việc phân chia ruộng đất công các làng xã để trên cơ sở đó triều đình thu tô và thuế.
Ruộng công các làng xã thời bấy giờ được gọi là quan điền hay “quan điền bản xã“. Năm 1254, triều đình “bán ruộng công, mỗi một diện là 5 quan” đã xác nhận quyền sở hữu ruộng đất công làng xã là thuộc về nhà nước như quan niệm dân gian: “đất của vua”.
Loại ruộng công trên, từ thời Lý, triều đình đã thu mỗi mẫu là 3 tháng, đến thời Trần thì không có ghi chép nào cụ thể. Một thư tịch đương thời ghi đơn giản “cày ruộng công điền hàng năm phải nộp thóc”. Tuy nhiên dựa vào một số tư liệu ít ỏi và đối chiếu với tình hình cùa các thế kỉ sau cũng có thể nêu lên mấy suy nghĩ sau đây:
- Hương xã thời bấy giờ có nhiều ruộng công, song ý thức bảo vệ bộ phận ruộng đất này cũng như sự chi phối của nhà nước đối với nó còn chưa chặt chẽ. Năm 1264, triều đình ra lệnh công khai bán ruộng công làm ruộng tư và hình như trong một thời gian dài suốt thế kỷ XIII không lập điền bạ. Có thể cho rằng ruộng công làng xã cũng là một cơ sở kinh tế của nhà nước.
- Tập tục phân chia ruộng đất làng xã và điều kiện cá nhân được nhận phần ruộng như thể nào, không có tài liệu nói rõ. Có lẽ vào thế kỉ XIII- XIV, nhà nước chưa có biện pháp bảo vệ cũng như dân đinh làng xã, chưa cần đề ra biện pháp phân chia theo định kì.
- Một điều rõ ràng là dưới thời Trần không phải số lượng ruộng đất công làng nào cũng bằng nhau và không phải nhân đinh nào cũng được chia đều ruộng đất như nhau, có người không có ruộng đất công cày cấy. Năm 1242, nhà Trần quy định “nhân đinh có ruộng thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn tất cả”. Vậy là trong nông thôn thời bấy giờ có một bộ phận dân cư không được nhận ruộng đất công.
- Nhà Trần cũng đã có chế độ tô thuế cho loại ruộng công của làng xã. Theo sử cũ thì phép định tô thuế đầu tiên được ban bố là năm 1242: “nhân đinh có ruộng đất thì nộp tiền thóc. Có 1 - 2 mẫu thì nộp tiền 1 quan, có 3 - 4 mẫu thì nộp 2 quan tiền, từ 5 mẫu trở lên thì nộp 3 quan tiền. Tô ruộng mỗi mẫu nộp 100 tháng thóc”.
Ghi chép trên tuy có phần cụ thế, nhưng vẫn chưa đầy đủ, chính xác. Chúng ta cũng chưa thể thông qua đây mà cho rằng những con số trên là tô thuế ruộng công hay thuế ruộng tư. Nguồn sử liệu ở thế kỉ XIX là Khâm định Việt sử thông giám cương muc (chính sử của nhà Nguyễn) thì cho rằng đây là thuế ruộng công, còn ruộng tư thì mỗi mẫu thuế là 3 thăng thóc. Sách An Nam chí nguyên ghi “Thời Lý - Trần công điền có hai loại và chia làm 3 hạng để đánh thuế… Ruộng Thác đao nộp thuế mỗi mẫu 1 thạch thóc, trung đẳng mỗi năm nộp thuế 3 mẫu 1 thạch thóc, hạ đẳng mỗi năm nộp thuế 4 mẫu 1 thạch thóc. Còn đới với ruộng của dân thì mỗi mẫu thu 3 thăng thóc”.
Nhận xét của tác giả sách Cương mục tuy dựa trên các tư liệu hiếm hoi trên là có thể chấp nhận được. Và như vậy, tô thuế ruộng đất vào thời này chủ yếu là đánh vào ruộng công. Nhân đinh cày ruộng công làng xã phải nộp bằng thóc theo diện tích chủ và phải thêm một số tiền nhất định. Cũng rõ ràng là số tiền và thóc mà nông dân làng xã đóng cho nhà nước đã mang một ý nghĩa tổng hợp: vừa là thuế vừa là địa tô.
Mốc tô thuế quy định năm 1242 như trên xem ra rất nặng. Theo thời giá ruộng đất thì một mẫu giá từ 5 đến 10 quan. Như vậy là hàng năm người nông dân phải nộp số tiền bằng từ 1/10 đến 1/5 mẫu ruộng (đối với loại chỉ có 1 mẫu) hoặc từ 1/10 đến 1/20 mẫu ruộng (đối với loại có 2 mẫu).
Ruộng đất tư nhân
Thái ấp - đất phong của quý tộc Trần
Thời Lý “các quan trong, quan ngoài đều không được cấp bổng”, đến thời Trần mới định lệ cấp bổng cho các quan văn võ trong ngoài. Đây là nét khác biệt rất cơ bản về tố chức nhà nước của hai triều đại. Có thể thấy thêm chính sách ban cấp ruộng đất và bổng lộc của nhà Trần dưới một hình thức tiêu biểu nhất là thái ấp.
Ban cấp thái ấp là chính sách kinh tế quan trọng nhằm tạo ra cơ sở xã hội cho chính quyền Trần. Từ “thái ấp” trong sử cũ không nhiều. Các nhà sử học Ngô Sĩ Liên, Phan Huy Chú không dùng từ này. Ngô Sĩ Liên ghi “chế độ nhà Trần các vương hầu đều có phủ đệ ở hương của mình, khi chầu hầu thì mới đến kinh sư, xong lại về. Như Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương. Quôc Chẩn ở Chí Linh đều thế cả”. Phan Huy Chú viết “xét: những vương hầu triều Trần được mở phủ đệ đều có trại riêng ở hương. Khi có lễ vào chầu thì mới tới kinh, xong việc lại về phủ đệ (như Thủ Độ ở Quắc Hương. Quôc Chẩn ở Chí Linh, Chiêu Văn ở Thanh Hóa, Quốc Khang ở Diễn Châu). Người nào được triệu làm tể tướng mới ở kinh sư, khi đấy đất ở không định hạn”.
Mặc dầu vậy, một văn bản chính thức đương thời được chép khá nguyên vẹn trong các sử cũ là bài Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng hai lần nhắc đến từ thái ấp: "chẳng những thái ấp của ta bị tước” (bất duy dư chỉ thái ấp bi tước), "chẳng những là thái ấp của ta mãi mãi lưu truyền” (bất duy dư chỉ thái ấp vinh vi thanh chiên) thì rõ ràng thái ấp là sự thực khách quan, và là của quý tộc họ Trần. Sau đây là một số thái ấp tiêu biểu trong thế kỉ XIII có chép trong sử cũ mà các tài liệu địa phương ghi nhận.
Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Bình Lục, Hà Nam).
Trần Quốc Khang mấy thôn ở phủ Diễn Châu (Nghệ An).
Quắc Hương còn gọi là Quắc Thị, thái ấp của thái sư tướng quốc Trần Thủ Độ nay là làng Thành Thị, tên nôm là làng Vọc, thuộc huyện Bình Lục, Hà Nam. Vào thời Lê-Nguyễn, Thành Thị thuộc tổng Ngọc Lũ phủ Lý Nhân. Thành Thị cách thành phố Nam Ninh (Tức Mặc xưa) 7km về phía Đông Nam; cách thị xã Phủ Lý 15km về phía bắc.
Khi nhà Trần thay thế nhà Lý, Trần Thừa vẫn ớ Tĩỉnh Cương (Hưng Hà, Thái Bình) thì Trần Thủ Độ về Quắc Hương lập thái ấp, vừa để khống chế và tiêu diệt thế lực quan lại nhà Lý trong vùng, vừa bảo vệ mặt bắc hành cung Tức Mặc (sau là phủ Thiên Trường). Thái ấp Quắc Hương rộng bao nhiêu, ruộng đất và cư dân phân bố như thế nào không rõ, nhưng những địa danh và di tích của Quắc Hương thời Trần còn lại rải trên một vùng đất khoảng 3 km², hơi hẹp về đông - tây mà dài về nam.
Phía đông Quắc Hương là sông Ninh Giang chảy ra sông Hồng, phía tây nay là làng Vũ Bị. Phần bắc Quắc Hương có sông Cụt, một sông nhân tạo đào từ giữa lòng chếch theo hướng bắc ra sông Ninh Giang, dài khoảng 150m. Sông Cụt nay đã bị lấp gần hết, vết tích còn lại là một số ao hồ rải rác và một đoạn sông phía nam xóm Đông Thành đổ vào Ninh Giang. Qua đoạn sông này có một cầu nhỏ mang tên là Cầu Nhà Vua. Sở dĩ gọi là Cầu Nhà Vua bởi lẽ, theo dân gian kể, buổi khởi thủy cầu này do 'vua' Trần Thủ Độ cho xây dựng để qua lại từ bên dinh thự sang xóm Đông Thành. Sông Cụt hợp vào sông Ninh Giang là đường giao thông thủy chuyên chở nguyên vật liệu để xây dựng phủ đệ, thóc gạo về thái ấp và ngược lại.
Gần Cầu Nhà Vua, về phía nam là khu ruộng có tên là Nền nhà Vua hay Dinh vua. Nền nhà vua là nơi ở của chủ thái ấp Trần Thủ Độ và con cháu. Nền nhà Vua nay chỉ còn là địa danh, cả nền nhà đã bị san bằng làm khu ruộng thấp cấy lúa mang địa danh mới là Ruộng Vua.
Phía nam Nền nhà Vua, khoảng giữa làng có một di tích kiến trúc là Đình Cả. Theo cách nói của dân gian thì đây là nơi làm việc của quan “Thượng phụ“ hay của "Trần hoàng thúc“. Đình được xây dựng trên một khoảng đất cao hơn mặt đất xung quanh đến 5m. Sau khi Trần Thủ Độ mất thì đến thời Lê nơi này thành nơi thờ ông.
Sát cạnh Dinh Cả là nhà Giảng Võ. Nhà đã bị triệt hạ từ rất lâu.- nay chỉ còn là ruộng lúa. Phía nam, cách Đình Cả 100m là khu Cột Cờ. Khu Cột Cờ là khoảng đất rộng 3 sào Bắc bộ, cao hơn mặt ruộng xung quanh 0,50m. Chính giữa nối cao một gò đất rộng gần 1 sào, có tên gọi là Chân Cột Cờ. Tại khu Cột Cờ này, khảo cổ học đã tìm thấy một số con giống bằng đá như chó đá, nghệ đá, rùa đá. Cách cột cờ hơn 60 m về phía tây nam là một đám đất vuông 40m2 có tên là Lá Cờ.
Gần khu Cột Cờ về phía đông là nền nhà Cương, có người gọi là Khu Cột ngựa. Nhà Cương bị phá từ rất lâu, nhưng nền nhà còn lại với diện tích 2 sào Bắc bộ, cao hơn mặt ruộng 0,40m. Đây là dãy nhà nuôi ngựa, kho binh khí của hoàng thúc Trần Thủ Độ.
Khoảng giữa khu Cột Cờ và nền nhà Cương là Gò Con Quy. Gò cao 1m rộng gần 1 mẫu Bắc bộ. Trên gò hiện còn một rùa đá cut đầu. Tục truyền đây là “rùa thần” của Trần hoàng thúc. Rùa đá bị giặc phương Bắc khoét mất, chặt đầu. Phia bắc khu Cột Cờ là khu Gò rẻ quạt. Gò rè quạt có 5 gò nhỏ tỏa ra như cánh quạt. Các gò này hiện còn dấu tích. Theo nhân dân địa phương thì đây là khu luyện tập binh lính và võ thuật. Khu Vườn Hoa ở phia nam làng. Cũng có người gọi là Vườn được bởi vì vườn này có nhiều cây thuốc. Phía tây nam khu Vườn Hoa là khu Góc Chuông, rộng khoảng 3 sào, cao hơn mặt đất nằm sát chân thành Ngoại. Nhiều người cho rằng đây là trạm canh gác ngày xưa.
Về phía tây, làng có mộ táng nằm sát chân thành Nội. Mộ táng xếp hình cũi lợn, giữa là tro than.
Quắc Hương còn có dí tích 2 thành đất mang địa danh là thành Nội và Thành Ngoại. Từ phia bắc khu Nền nhà vua, thành Nội chạy dọc theo phía tây làng mà vết tích là con đường nhỏ dài khoảng 800m. Chân thành Nội phía bắc còn lại là một gò đất cao hơn mặt ruộng 1m có chiêu dài 20m, mặt trên rộng 5 đến 6m (nay nằm trong khu nghĩa địa làng). Chân thành Nội phía nam nằm bên tây Đình Cả là một gò đất dài 15m, cao hơn mặt ruộng 1m, cách sông Ninh Giang về phía động hơn 360m.
Thành Ngoại cách thành Nội 100m về phía tây. Theo các cụ già địa phương thì thành Ngoại là đường ngăn giới 2 làng Vũ Bị và Thành Thị ở phía bắc đến cánh đồng trắng phía tây làng. Hiện nay dấu vết còn lại của thành Ngoại là một gò đất cao hơn mặt ruộng 1,5m, rộng 20m, chân gò có nhiêu sỏi và đá cuội mà nhân dân địa phương vẫn gọi là Chân thành Ngoại ở khoảng giữa phía tây làng.
Ngoài ra trên đồng làng Thành Thị còn có địa danh Vườn Quan hay đồng Thượng Phụ. Các nhà khảo có học còn tìm thấy mộ hình nhà 4 múi bằng đất nung.
Một số thái ấp khác cũng có kiểu dáng gân giống như trên. Thái ấp của Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang, con vua Thái Tông Trần Cảnh ở Chu Diên. Sử cũ ghi cụ thể “Quõc Khang từng trông coi Châu Diên, chọn con gái trong châu người nào có sắc đẹp lấy làm nàng hầu vợ lẽ, cho nên các con thứ như Huệ Nghĩa, Quốc Trịnh đều do người Châu Diên sinh ra. Về sau, chức tri châu Diễn Châu đều là con cháu của Quốc Khang làm cả; đến khi dòng giống không có con trai mới dùng người bản châu làm tri châu”. Theo tư liệu địa phương thì khu thái ấp của Trấn Quốc Khang là làng Công Trung (Vân Thành, Yên Thành, Nghệ An).
Nguồn đất ban đầu của thái ấp thuộc quyền sở hữu Nhà nước, nhưng khi ban cấp thành thái ấp thì thái ấp thuộc chiếm hữu tư nhân các quý tộc. Thái ấp là vùng đất riêng của các qúy tộc Trần. Theo những tài liệu còn lại như Quắc Hương, Tinh Cương (Hưng Hà, Thái Bình), Linh Giang, Công Trung thì quy mô thái ấp khoảng bằng một hai làng mà thôi.
Thái ấp thời Trần cũng là nơi ở thường xuyên của quý tộc và “mãi mãi được lưu truyền!” (lời Trần Hưng Đạo). Tuy nhiên, thái ấp rất phân tán. Sự phân bố thái ấp thời Trần hoàn toàn không giống như bộ phận lãnh địa các nước phương Tây trung cổ ”không có đất nào là không có chúa đất". Ở Đại Việt, thái ấp chỉ có phạm vi hẹp, tỉ lệ nhỏ so với ruộng đất và dân cư trong cả nước. Trên bản đồ đất nước bấy giờ, thái ấp chỉ là những điểm nhỏ bé và thưa thớt ở vùng đông bằng, không đủ khả năng tạo ra một mối liên kết kinh tế - xă hội riêng biệt đôi lập với triều đình, mà ngược lại sự tồn tại của nó phải gắn chặt với triều đình, với dòng họ Trần.
Điền trang
Sự thực thì điền trang có từ trước, song còn lẻ tẻ, rời rạc, chưa thành một lực lượng kinh tế to lớn của cả tầng lớp quý tộc. Cơ thể nói rằng trong An Lạc là điền trang được hình thành vào loại sớm nhất. Một tài liệu địa phương ghi “xã An Lạc trước là do đất bồi. Vương phụ của Quốc Tuấn là An Sinh vương mộ dân khai khẩn lập ấp. Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn có công lớn bình Nguyên nên cho lập sinh từ ở đấy”. An Lạc là nơi chôn cất tro xương hỏa táng của Trần Quốc Tuấn.
Nhiều tư liệu địa phương cũng cho biết bản thân vua Trần cũng lập vùng đất tương tự như điền trang. Vào khoảng sau cuộc kháng chiến chống Mông Cố lần thứ nhất , Trần Thái Tông về lộ Trường Yên lập hành cung Vũ Lâm. Đây là vùng đất rộng lớn (ngày nay bao gồm các xã Ninh Hải, Ninh Thắng, Ninh Xuân, Ninh Vân huyện Hoa Lư, Ninh Bình). Những di tích và địa danh còn lại như Hành Cung (nơi vua ở) làng Tuân Cáo (kiểm soát người qua lại) bến Hạ Trạo (hạ mái chèo) vườn kho đã nói lên hoạt động của vùng đất này vào thời đó. Trong khu cực hành cung có thôn Văn Lâm là do Thái Tông lập ra ruộng đất khai hoang được 155 mẫu.
Di tích còn lại của xóm nhỏ Viên Thôn, xã Cổ Nhuế (ngoại thành Hà Nội) cũng giúp ta có thể hình dung một trang viên đời Trần. Viên Thôn xưa là một phần điền trang của công chúa Trần Khắc Hãn, có tên nôm là bà chúa Móc. Ở đây có ngôi miếu nhỏ mang tên là Viên Thôn linh từ và cánh đồng 81 mẫu gọi là đồng Móc.
Ghi nhớ trên cho biết bà công chúa Trần Khắc Hãn đã theo lệnh khẩn hoang năm 1266 lập điền trang ở vùng Cổ Nhuế. Điền trang này có khoảng 250 mẫu ruộng có chùa Thánh Quang.
Vùng Tô Xuyên (Quỳnh Phụ, Thái Bình) cũng là điền trang thời Trần. Sau năm 1266, phò mã Hưng Mĩ hầu họ Vũ chiêu tập dân nghèo về vùng lưu vực sông Hóa khai khẩn ruộng đất. Đây là vùng đất phù sa, trồng lúa thuận lợi. Vào lúc nhân dân ta tiến hành chống quân Nguyên (1285, 1288) thì điền trang này đã phát triển “là đồn trú quân, xây dựng kho lương”. Đến cuối thời Trần thì "con cháu Hưng Mĩ hầu đã chiêu mộ binh sĩ lập đồn để khôi phục quốc tộc chống lại họ Hồ, chứ không thành binh sĩ trở về làm dân thường”.
Tư liệu địa phương thôn Phất Lộc (xã Thái Giang, Thái Thụy, Thái Bình) cho biết bà công chúa Bảo Hoa con vua Duệ Tông chính là người lập ra điền trang Phất Lộc. Nơi bà Bảo Hoa ở nay chính là mảnh đất có tên là “Miến hoàn điền" về sau có ngôi đền thôn Phất Lộc thờ Bà cũng vào khoảng thời gian này. Điền trang Võ Hoạn phủ Thiên Trường (nay thuộc Nam Ninh, Nam Định) do quý tộc Trần Chiêu Đức thành lập. Như vậy đến nửa sau thế kỉ XIV điền trang vẫn tiếp tục được thành lập ở vùng ven biển thuộc châu thổ sông Hồng.
Điền trang được thành lập là điểm dân cư tiêu biểu cho hình thái kinh tế - xã hội thời Trần. Trong những điểm dân cư trên, ruộng đất được chia thành từng phần nhỏ lấy hộ gia đình làm đơn vị sản xuất. Bài văn Trần triều công chúa nghi của Viên Thôn linh từ có chép:
Đội công đức chúa biết là đến đâu”.
Những nô ở đây có nhiều thân phận khác nhau, có người là nô tì, có người là nông dân lệ thuộc hoăkc là “nô tì hai ba năm sau khi khẩn thành ruộng cho họ lấy nhau mà ở ngay đấy”. Mối liên kết cư dân ở đây vẫn lấy họ hàng, xóm “giáp" làm cơ sở, hình thức bóc lột người lao động ở đây chủ yếu vấn là địa chủ - tá điền có xen lẫn lối bóc lột nông nô - nô tì đa dạng phức tap.
Điều lệ lập điền trang năm 1266 đã đẩy mạnh sự phát triển sở hữu lớn của các quý tộc Trần, tạo thêm một bước chuyển biến mạnh mẽ mở rộng cho hình thái kinh tế phong kiến.
Tuy thuộc vào loại hình sở hữu lớn, nhưng diện tích điền trang cũng không nhiều lắm. An Lạc, Văn Lâm, Viên Thôn, Tô Xuyên v.v. đến ngày nay cũng chỉ là thôn làng. Ruộng đất An Lạc khoảng 500 mẫu là nhiều nhất. Văn Lâm và Viên Thôn thì từ 150 mẫu đến 250 mẫu. Điền trang thế kỉ XIII - XIV của các quý tộc Trần không hoàn toàn như lãnh địa theo kiểu phương Tây: có khu đất riêng của chúa đất (domaine) tách biệt với phần ruộng của nông dân. Điền trang thời Trần là khu vực kinh tế hỗn hợp của những hình thức bóc lột nông nô, nô tì và nông dân lệ thuộc. Tuy nhiện, về mặt nào đó cũng như thái ấp, kinh tế điền trang không hoàn toàn phân tán, bóc lột tô lao dịch (có mặt gần giống trang viên châu Âu đương thời).
Từ năm 1266 trở đi, bản thân tầng lớp quý tộc đã dựa vào hai tố chức kinh tế cơ bản: thái ấp và điền trang mà phát triển vững vàng đến giữa thế kỉ XIV. Điền trang và thái ấp là hai bộ phận quan trọng có ý nghĩa quyết định tính chất loại hình sở hữu ruộng đất phong kiến quý tộc thời bấy giờ.
Ruộng đất tư hữu của địa chủ
Năm 1254, một thời điểm quan trọng đánh đầu sự phát triển của ruộng đất tư hữu, triều đình ra điều lệnh "bán ruộng công, mỗi diện là 5 quan tiền cho nhân dân làm của tư”. Hẳn đây là đòi hỏi của tư hữu ruộng đất, nhưng việc làm của triều đình đã mở rộng cửa cho ruộng đất tư hữu và sự thay đổi của các chủ sở hữu.
Tiền tệ, đã thâm nhập mạnh mẽ vào ruộng đất. Ruộng đất đã trở thành hàng hóa mua bán trao đổi, tạo ra cho xã hội một tầng lớp đặc biệt địa chủ thường hay địa chủ thứ dân và một tầng lớp tiểu nông tư hữu nhỏ phố biến trong xã hội.
Vào đầu thời Tràn, chế độ sở hữu ruộng đất tư nhân đã mở rộng. Việc mua bán và tranh chấp ruộng đất đã có ở nhiều nơi, nên năm 1227, triều đình phải quy định việc điểm chỉ lên các giấy tờ, văn khế mua bán ruộng đất. Ít lâu sau, triều đình lại ra lệnh: “phàm làm giấy tờ về chúc thư, văn khế ruộng đất và vay mượn tiền bạc thì người làm chứng in tay ở ba dòng trước, người bán in tay ở bốn dòng sau”.
Năm 1248, nhà Trần tiến hành đắp đê trong cả nước. Đê bảo vệ quyền tư hữu ruộng đất của dân, chính quyền đã hạ lệnh cho các quan địa phương nếu đắp vào ruộng dân thì phải đo đạc mà đền bù bằng tiền.
Vào đầu những năm 80 của thể kỉ XIII, thì điền chủ nhiều ruộng đất, có ở khắp nơi. Nhiều lần triều đình kêu gọi bỏ thóc lúa giúp quân lương. Trong chiến tranh chống Mông - Nguyên lần thứ hai và ba, nhà vua đã ban chức “giả lang tướng” cho nhà giầu nộp nhiều thóc cho triều đình.
Tuy nhiên, sự giàu có cũng như sự bóc lột của tầng lớp địa chủ này không tạo nên địa vị thống trị cao sang được ưu đãi. Họ cũng chỉ được Nhà nước coi là dân thường như một số tầng lớp lao động thấp kém khác. Luật nhà Trần năm 1228 quy định rõ: “Người có quan tước, con cháu được tập ấm mới được ra làm quan, người giàu có khỏe mạnh mà không có quan tước thì sung quân đời đời làm lính”. Chính vì vậy mà chúng tôi dùng thuật ngữ địa chủ thường hay địa chủ thứ dân.
Việc mua bán ruộng đất công khai, hợp pháp lại được Nhà nước ủng hộ bằng pháp lệnh năm 1254 làm cho sở hữu địa chủ phát triển mạnh thêm. Nhưng chính sự mua bán ruộng đất cũng làm cho tính chất sở hữu trong thành phần kinh tế này luôn luôn dao động, không tập trung, không ổn định như thái ấp, điền trang. Sở hữu của địa chủ tuy lớn, nhưng lại phân tán. Đồng thời, giữa sở hữu địa chủ và sở hữu tiểu nông không có hàng rào cách biệt: tiền tệ và các điều kiện khác như gặp khó khán sa sút có thể tạo ra sự chuyển hóa hai hình thái sở hữu và hai thành phần xã hội này.
Tiểu nông tư hữu
Kinh tế hàng hóa - tiền tệ cũng là một trong những nguyên nhân tạo ra sở hữu ruộng đất tiểu nông. Lệnh bán ruộng công làm ruộng tư năm 1254 cũng là điều kiện cho gia đình tiểu nông mua thêm ruộng đất, quyền lực tiền tệ đã làm chuyên đổi quyền sở hữu ruộng đất. Văn bia Sùng Hưng tự, khắc năm 1293 (xã Tiểu Liên, Mỹ Lộc, Nam Định) ghi hàng loạt các cư sĩ cúng vào chùa vài ba sào đến lớn nhất là 5 sào.
Vậy là đến thế kỉ XIII, việc mun bán ruộng đất đã tương đối phố biến. Những năm mất mùa đói kém là lúc mà ruộng đất chuyển từ dân nghèo vào địa chủ. Tháng 4 năm 1290 có đói lớn “ba thăng gạo giá 1 quan, nhân dân nhiều nơi phải bán ruộng đất và bán con trai con gái làm nô tì cho người khác, một người già 1 quan tiền”. Cuối mùa xuân năm 1292, tình trạng mua bán ruộng đất lại dồn dập hơn. Triều đình lại phải ra lệnh quy định thể thức làm văn tự bán đoạn hay đo ruộng đất, lại “xuống chiếu rằng những người mua dân lương thiện làm nô tì thì cho chuộc lại, ruộng đất và nhà ở thì không theo luật này”.
Sử cũ ghi chép rất ít về sở hữu nhỏ của tiểu nông, tư liệu còn lại về tầng lớn này cũng không nhiều lắm. Tuy nhiên cũng có thể thấy rằng bên cạnh những nô tì, nông nô, nông dân cày ruộng làng xã cũng đã có nhiều tiểu nông tư hữu có ít ruộng đất. Ruộng đất tư hữu của họ không ổn định. Gặp năm “mất mùa đói kém họ lại phải bán con cái, bán ruộng đất cho địa chủ, không ít người lâm vào cảnh làm nô tì, đặc biệt trong hai năm Canh Dần, Tân Mão (1290, 1291) "ngoài đường nhiều người chết đói”.
Sản xuất nông nghiệp trên mảnh đất nhỏ thuộc bất cứ hình thái sở hữu nào tiền chủ nghĩa tư bản cũng đều lấy tiểu nông làm đơn vị sán xuất cơ sở. Dù là nông dân cày ruộng làng, cày ruộng tư hữu của quý tộc, địa chủ, cả đến những nông nô thì công việc làm ăn vẫn tiên hành trong gia đình cá thể là chủ yểu. Ruộng của Nhà nước, thái ấp và điền trang của quý tộc, quan lại thì người lao động đều sử dụng hình thức kinh doanh nhỏ dưới dạng tiểu nông.
Sản xuất tiểu nông đã cộng sinh với các loại hình quan hệ sản xuất khác nhau. Các thành phần kinh tế điền trang, thái ấp, địa chủ v.v... đều dựa trên sản xuất tiêu nông dưới những hình thức và mức độ bóc lột khác nhau. Và trên một hàm nghĩa rộng lớn hơn: nông dân 'tự do', nông dân tá điền, nông nô (mà trong đó không loại trừ một bộ phận gọi là nô) đã hòa vào nhau lập thành một thành phần kinh tế - xă hội rộng lớn. Nó sẽ góp phần rất lớn cùng với sở hữu ruộng đất Nhà nước, hạn chế sự phát triển của điền trang thái ấp, hạn chế con đường phong kiến theo kiểu lãnh địa bóc lột nông nô trong thế kỉ XIII và các thể kỉ sau.
Công cuộc trị thủy
Đê đỉnh nhĩ và dòng kênh tiêu úng
Ở thời Lý công việc trị thủy vẫn do các địa phương tự lo liệu, tự góp tiền của, nhà nước chỉ đóng vai trò chỉ đạo và quản lý một số đê, chủ yếu là xung quanh Thăng Long. Mấy chục năm đầu thế kỉ XIII thì hầu như việc trị thủy bị bỏ bê trễ, không được lưu tâm thích đáng.
Nhà Trần vừa nắm chính quyền đã có biện pháp nhanh chóng phục hồi sản xuất nông nghiệp, mở rộng thêm diện tích canh tác. Triều đình đã áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích nông nghiệp, trong đó có tổ chức làm thủy lợi trong phạm vi cả nước.
Những “đê vùng” thời Lý trong đó có đê Cơ Xá bảo vệ kinh thành vốn có nhiều hạn chế từ trước. Đến những năm 20 của thế kỉ XI, nhiều khi nước sông Hồng ngập tràn đến thành Đại La, nhà Lý phải cho đắp chân thành hàng gạch để chống nước lụt,xói lở. Những đê vùng có nhược điểm là không chống lụt được toàn diện, ngược lại có khi còn sinh ra mâu thuẫn gây bất lợi cho vùng khác. Ngay trong thờí Trần Thái Tông, có lần nước lụt vào cung điện như tháng tám năm 1238, nước to tràn vào vũ cung Thường Xuân; tháng 9 năm 1243 nước to phá vỡ thành Đại La, tràn vào thôn xóm, cung điện.
Nhà Trần ý thức được ràng muốn bảo vệ mùa màng, nhà cửa, tính mạng một cách ổn định lâu dài phải có quy hoạch đắp đê quy mô theo cả dòng sông. Năm 1248, Thái Tông đặt cơ quan hà đê, có chánh sứ, phó sứ phụ trách việc đê điều ở các lộ phủ lại xuống chiếu đắp đê. Sử cũ ghi: ”đắp đê để giữ nước sông gọi là đê quai vạc, đắp suốt từ đầu nguồn cho tới bờ biển để ngăn nước lũ tràn ngập. Đắp đê quai vạc bắt đầu từ đây”.
Việc đắp đê đỉnh nhĩ không chỉ dành riêng cho vùng đồng bằng sông Hồng mà còn thực hiện cả ở Thanh Hóa và Nghệ An.
Năm 1255, triều đình cử Lưu Miễn tổ chức bồi đắp đê ở Thanh Hóa.
Đê đỉnh nhĩ không phải là công trình mới hoàn toàn và cũng không phải chỉ đắp một lần là xong. Ở một số nơi, trên cơ sở những đoạn đê “vùng” cũ nhà Trần đã cho đắp nối lại, hợp nhất thành tuyến từ đầu nguồn đến biển. Công việc ở đây chủ yếu là đắp thêm các đoạn nối, tôn cao hơn cho to vững.
Thư tịch cũ mô tả đê sông Hồng “ở bên kia sông Phú Lương đều có đê ngăn nước. Một con đê chạy từ sông Đáy đến vùng Hải Triều (Hưng Yên), một con đê chạy từ sông Bạch Hạc đến các sông Lô, sông Đại Lũng, đến cửa Mạch, cửa Ninh (Ninh Cơ) thì đứt. Mỗi bên cao ba thước, rộng năm trượng”.
Đê đỉnh nhĩ ra đời thể hiện một bước tiến toàn diện về sức mạnh nhà nước, về tổ chức xã hội. Nó có tác dụng quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Rõ ràng các địa phương cục bộ không thể tự liên kết để cùng tiến hành xây đắp đê điều. Ngược lại, có khi vì quyền lợi cục bộ lại làm cho họ xa rời hay mâu thuẫn với nhau. Hoàn thành việc đắp đê đỉnh nhĩ chính là sự thành công trong việc tạo ra mối liên kết chặt chẽ để huy động nhân lực và của cải nhằm giải quyết khó khăn trong cả nước. Kể từ năm 1248 trở đi "năm nào cũng vậy, cứ đầu năm các quan coi đê phải lo đốc thúc nhân dân phụ cận, không kể sang hèn, già trẻ đều phải đi đắp. Chỗ nào đê thấp thì tôn cao lên, chỗ lở thì bồi đắp lại. Đến mùa hè thì tất công. Đây là công việc làm hàng năm”. Đắp đê ngăn nước mặn cũng là công cuộc mới mẻ ở thời Trần. Các nhà quý tộc thường cho nô tì đắp đê ở bãi biển lập điền trang.
Hộ trúc đê điều vào mùa lụt hàng năm cũng là công việc rất khấn trương. Triều đình quy định khi có lụt cần hộ đê thì phải lo chung, kể cà học sinh Quốc tử giám, con em các quý tộc đại thần. Sử cũ có ghi sự kiện hộ đê năm 1313 khá sinh động. Năm ấy nước sông lên to, Trần Minh Tông thân đi hộ đê. Một quan ngự sử can ngăn "Bệ hạ nên chăm lo sửa sang đức chính, đắp đê là việc nhỏ, đi xem làm gì”. Hành khiển Trần Khắc Chung đáp lại: “Phàm dân gặp nạn lụt, người làm vua phải lo cấp cứu cho sửa sang đức chính cũng không gì to bằng việc ấy, cần gì phải ngồi yên lặng mới gọi là sửa sang đức chính“.
Công cuộc xây dựng thủy nông cũng được nhà Trăn chú ý. Ở những vùng Thanh Hóa và Nghệ An là nơi có nhiều công trình thủy nông. Năm 1231 nhiều dòng sông bị tắc, vua Thái Tông sai hoạn quan Nguyễn Bang Cốc đem quân bản phủ đào kênh Trăm, kênh Hào từ Thanh Hóa đến Diễn Châu. Công việc nặng nhọc, khó làm; xong việc, Nguyễn Bang Cóc được phong là Phụ Quốc thái úy.
Năm 1248, Nhân Tông lại cho đào sông Mã, sông Lễ và đục núi Chiếu Bạch ở Thanh Hóa. Đây cũng là công việc tốn sức, tốn của. Riêng đục núi Chiếu Bạch tạo thành một con kênh chạy theo hướng bắc nam, dài hơn 8 km từ sông Hoạt (chỗ sát Cầu Cừ) đến sông Lèn (tại làng Binh Lâm) mà dân địa phương gọi là sông Đá Bạch nhằm tiêu nước vùng Tống Giang (Hà Trung, Thanh Hóa) là công trình lớn.
Năm 1256, triều đình lại cho khơi lại sông Tô Lịch nhằm bảo đảm giao thông đồng thời để tưới tiêu cho các vùng xung quanh kinh thành. Sang thế kỉ XIV nhiều công trình thủy nông vẫn được tiếp tục xây dựng. Năm 1355 và 1357 Dụ Tông cho đào sông ở Thanh Hóa và Nghệ An. Năm 1374, triều đình còn cho nạo vét những sông đào từ Thanh Hóa đến của biển Hà Hoa (Kì La, Ki Anh, Hà Tĩnh). Đến năm 1882 triều đình cho đào tiếp sông ở Tân Bình và Thuận Hóa.
Trên đây là những công trình trị thủy và thủy nông do nhà nước tổ chức xây dựng. Chắc chắn còn nhiều đê đập, kênh ngòi mà nhân dân tự làm lấy để bảo vệ thành quả sản xuất của mình.
Địa chỉ cửa hàng
Phúc Diễn - Bắc Từ Liêm
Bán hàng toàn quốc










Bình luận Nông nghiệp Đại Việt thời Trần