Nông nghiệp Đại Cồ Việt thời Đinh - Tiền Lê
Ngày 16:47:29, 29-07-2016 Tác giả Trần Thị Huyền
Đại Cồ Việt là một quốc gia nông nghiệp thuần túy. Những năm dưới thời họ Khúc, họ Ngô, do tác động của các cuộc chiến tranh và tranh chấp nội bộ, nhà nước không có điều kiện xây dựng một nền kinh tế riêng.
Đất nước ổn định. Ý thức quyền lực tập trung của nhà nước quân chủ dần dần dẫn đến sự hình thành các quan niệm về quyền sở hữu tối cao của nhà vua đối với toàn bộ ruộng đất trong nước. Thực hiện quan niệm này, Đinh Bộ Lĩnh sau khi lên ngôi hoàng đế đã phong ấp và phong hộ nông dân cho các tướng lĩnh có công như Trần Lãm, Nguyễn Tấn, Phạm Hán, Phạm Hổ… Tiếp sau đó nhà Tiền Lê đã thực hiện việc phong ấp cho các hoàng tử và giao cho họ cai quản địa phương có ấp của mình. Một số quan chức cao cấp như Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn cũng được phong ấp ở Điền Châu.
Hơn nữa Lê Hoàn còn sử dụng một số vùng đã tịch thu được của các sứ quân để làm ruộng tịch điền, phục vụ nghi lễ khuyến khích sản xuất nông nghiệp và lấy thóc lúa đưa vào kho của nhà nước như Bố Hải Khẩu - vùng đất lập cũ của sứ quân Trần Lãm, Đỗ Động của sứ quân Đỗ Cảnh Thạc và một số vùng khác như Bàn Hải, Đọi Sơn (Hà Nam)... đều là tịch điền của nhà nước. Các vùng đất này đều do những người bị tù tội hay nông dân làm nghĩa vụ lao dịch cày cấy, toàn bộ thu hoạch thuộc về nhà nước.
Bên cạnh đó, một hiện tượng được bia cổ ghi lại đã nói thêm về điều này. Theo tấm bia “Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh”, vua Đinh Tiên Hoàng đã phong Lê Lương (người Đông Sơn, Thanh Hóa) làm Đốc quốc dịch sứ của quận Cửu Chân, thuộc Ái Châu, cai quản cả một vùng đất rộng lớn “đông đến Phân Định, nam đến Vũ Long, tây đến đỉnh núi Ma La, bắc đến lèn Kim Cốc” và cho con cháu ông được đời đời làm quan coi đất ấy. Thực ra thì vùng đất rộng lớn này vốn thuộc quyền cai quản của dòng họ Lê Lương từ trước và bản thân ông cũng là một lãnh chúa lớn của địa phương này. Việc phong cấp mang ý nghĩa khẳng định quyền sở hữu tối cao về ruộng đất của nhà nước mới.
Ruộng đất trong nước nói chung thuộc sở hữu làng xã. Nhân dân trong làng theo tập tục chia ruộng đều cho nhau để cày cấy và hàng năm nộp thuế cho nhà nước. Một số làng mới được thành lập bằng phương thức khai hoang, cũng theo phương thức phân chia ruộng đất đó. Tuy nhiên, ở một số nơi vẫn còn tồn tại các trang trại của con cháu các viên quan đô hộ cũ nhà Đường hoặc các thổ hào địa phương. Rải rác ở những nơi này hay làng nọ, đã xuất hiện ruộng đất tư hữu. Quá trình phong kiến hóa được tiếp tục.
Trong điều kiện hòa bình, ổn định xã hội đã giúp cho người nông dân phát triển sản xuất vừa để có thu nhập duy trì cuộc sống, vừa có thóc nộp thuế cho nhà nước hay tô cho quan chức, chủ ấp. Nhà nước mới cũng quan tâm nhiều hơn tới nông nghiệp. Vua Lê, hàng năm vào đầu xuân, vẫn về địa phương làm lễ cày ruộng tịch điền để khuyến khích sản xuất. Nhà Lê cũng chú ý đào vét sông kênh vừa phục vụ việc lưu thông vừa phục vụ sản xuất nông nghiệp. Năm 1003, Lê Hoàn sai quân nạo vét kênh Đa Cái (Hoa Cái, Nghệ An); năm 1009, Lê Long Đĩnh cho phép quân dân Ái Châu (Thanh Hóa) đắp đường, đào kênh ở vùng mình…
Sự khuyến khích của nhà nước và sự nỗ lực của nhân dân làm cho nông nghiệp ngày càng ổn định và bước đầu phát triển. Mùa lúa các năm 987, 989 đều tốt.
>> Xem thêm thế hệ đồ Phong kiến Việt Nam.
Địa chỉ cửa hàng
Phúc Diễn - Bắc Từ Liêm
Bán hàng toàn quốc










Bình luận Nông nghiệp Đại Cồ Việt thời Đinh - Tiền Lê